Ở
xã Đỗ Sơn, huyện Thanh Ba, thờ dâm thần, đẽo gỗ thành hình đàn ông, đàn
bà… đặt lên trên cao, trước cửa đình, ngày vào đám, dân xã cùng nhau
xúm lạy ở dưới. Trước cách mạng tháng Tám, ở Dị Nậu (tên nôm là Kẻ Núc)
huyện Tam Nông có tục “cướp kén” được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng
hàng năm. Trước ngày vào hội dân làng cho chôn hai cây tre ở hai bên sân
đình, trên ngọn tre có cheo các bộ kén. Mỗi bộ kén gồm một chiếc mo cau
rạch ở giữa (tượng trưng cho vật âm), và một chiếc chày ngắn bằng gỗ
vông, một đầu tước xơ xớp ra (tượng trưng cho vật dương) đúng 12 giờ
trưa (chính ngọ) ông chủ tế đứng trước cửa đình đọc một bài cầu chúc
những điều may mắn. Sau đó người ta rung cây tre cho kén rơi xuống,
trong tiếng trống chuông rộn vang cùng tiếng reo hò, dân làng xô nhau
tranh cướp kén để cầu may cho cả năm.
Làng
Danh Hựu, huyện Tam Nông, có tục lệ vào ngày Tết, dân làng làm lều tre
bằng lá chuối, dưới lều có cheo những cặp giống của đàn ông được đẽo
bằng gỗ vông hoặc gỗ xoan và của đàn bà bằng mo cau. Một hình thức của
nghi lễ cầu sinh thực khí được gọi là múa mo hoặc cướp bông, cướp gươm,
vẫn được tổ chức ở các làng trên đất Phú Thọ như: Chu Hóa, Hà Thạch (Lâm
Thao); Đào Xá, La Phù (Thanh Thủy); Đông Viên (Cẩm Khê)… Nghi thức này
được tổ chức vào mùa xuân, trong cảnh tưng bừng náo nhiệt của hội làng,
ông chủ tế khấn cáo trước ban thờ Thành Hoàng rồi hạ bông gươm xuống,
đem ra cửa đình (đền) tung ra cho mọi người tranh cướp. Người ta tin
rằng, cướp được bông sẽ sinh con gái, cướp được gươm sẽ sinh con trai.
Trong
hội làng Khúc Lạc, huyện Cẩm Khê, cặp giống của đàn ông và đàn bà được
gọi là “Nõ - Nường”. Hàng năm, vào tối ngày 26 tháng giêng dân làng rước đủ cặp 36 cái “Nõ - Nường” được làm bằng gỗ cùng với những nghi thức
và những bài hát cổ được sử dụng trong lễ cúng tế. Lễ tế xong các cặp
Nõ - Nường được đổ ra cho dân làng tranh cướp. Mọi người tin rằng việc
sinh con trai hay gái trong năm sẽ tùy thuộc vào cái giống mà họ cướp
được.
Trên
địa bàn huyện Lâm Thao, làng Tứ Xã (tên Nôm là Kẻ Gát) có miếu Trám,
nơi thờ bản thổ nữ thần, tên húy là Thanh, người con gái có công lập ra
xóm Trám. Trong miếu có để thờ hai vật giống của nam nữ được đẽo bằng gỗ
sơn son thiếp vàng rất đẹp. Vào đúng 12 giờ đêm, ngày 11 tháng giêng âm
lịch sẽ diễn ra lễ mật, còn gọi là lễ “linh tinh tình phộc” - tức là lễ
cầu sinh thực khí. Có một đôi nam nữ cầm hai vật giống đứng trước ban
thờ, sau mỗi lần hô của ông chủ tế, đôi nam nữ cầm vật giống bằng gỗ
chạm vào nhau. Sau nghi lễ này, dân làng tổ chức hát ví giao duyên, trai
gái được tự do đùa nghịch nhau quanh miếu suốt đêm…
Có
thể thấy, tục thờ sinh thực khí qua các hội làng trên vùng trung du đất
Tổ, chính là mong ước cầu cho sự sinh sôi phát triển của cộng đồng, của
con người, là một nghi lễ rất
phổ biến vẫn được duy trì ở nhiều làng quê. Qua quá trình phát triển của
lịch sử - văn hóa và xã hội, một số tình tiết quá ư “phác thực” được
phản ánh một cách hồn nhiên trong giai đoạn đầu đã bị xóa đi, thay vào
đó là những nghi lễ, tục hèm, là những vật tượng trưng làm bằng các chất
liệu: Gỗ, tre, mo cau. Trong những nghi lễ diễn ra ấy, những cặp “Nõ -
Nường”, những vật giống “Âm dương” là trung tâm của ngày hội, đây là
nghi thức mang tính tín ngưỡng rõ rệt. Tính chất tín ngưỡng này chính là
điều kiện của sự tồn tại và bảo lưu của tục lệ. Xoay quanh tín ngưỡng
đó, là hàng loạt sinh hoạt có tính chất hội hè như: Cảnh rước sách, hát
sướng, hát giao duyên, cảnh tranh cướp… và đặc biệt là sự tham gia của
những đôi nam nữ, càng làm cho hội làng thêm phần sống động. Tuy nhiên,
qua các nghi lễ trong hội làng ấy, chúng ta không thấy có những hành
động tính giao, mà thay vào đó là những lời hát giao duyên tình tứ, lời
nói được sử dụng tượng trưng để thay cho hành động.
Đăng nhận xét