Làng cổ là làng được ra đời từ thế hệ thứ nhất trong tiến trình phát triển của làng Việt. Các đơn vị tụ cư cơ sở của người Việt khi ấy còn gọi là kẻ, chưa gọi làng. Các kẻ có tên Nôm thuần Việt một âm tiết như kẻ Mơ, kẻ Dầu, kẻ Quýt...

Làng Cổ đều gắn với tín ngưỡng, phong tục cổ. Các di tích là dấu ấn vật chất phản ánh cuộc sống văn hóa của làng cổ. Làng cổ Tứ Xã ở gần Đền Hùng có thể thống kê đến trên dưới trăm di tích lớn nhỏ phản ánh rõ quá trình xây dựng phát triển mọi mặt của làng này.

Riêng về khảo cổ làng Tứ Xã đã có nhiều di tích thuộc  các giai đoạn văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Đông Sơn ở xóm Kiếu, gò Mã Nguộn, gò Chiền, gò Đồng Đậu II... Riêng di tích khảo cổ Gò Mun trên dưới ba ngàn năm được mang tên chung cho một nền văn hóa khảo cổ Gò Mun.

Dòng Nậm Tao (Sông Thao) xa xưa luôn đổi dòng trên đồng đất Tứ Xã. Dân làng vì thế cũng phải nhiều lần rời làng lên những gò đất cao khỏi lụt lội và tiện lợi cho việc làm ruộng nước và đánh bắt tôm cá cua ốc. Làng một thời ở khu Đồng Trong. Khi có đê sông Hồng định hình như ngày nay thì khu Đồng Trong bị ngập úng, phù sa sông Hồng bồi đắp dần san bằng đồng bãi gò đồi để nó trở thành khu đồng chiêm trũng mà mùa mưa xa xưa cả khu Đồng Trong là biển hồ mênh mông nước. Vì một thời là làng nên ngày nay Đồng Trong vẫn có các tên  gò Chùa, gò Cây Quân, gò Lò Gạch, Lò Ngói... mà người ta có thể nhặt được nhiều đồ gốm gạch ngói cổ.

Theo thần tích ở chùa Tổng thì thời Á Hồng Bàng cha con ông Ngô Quang Điện  đã rời làng từ Đồng Trong về làng hiện nay.

Ông Ngô Quang Điện được dân làng đắp thành tượng Đức Ông thờ ở chùa Tổng, theo kiểu của chùa chiền Việt Nam giai đoạn đầu thờ tiền thần hậu phật (phía trước thờ thần Đức Ông, hậu cung thờ phật). Chùa Tổng là di tích lớn đầu tiên của làng ngoài sinh hoạt của tín ngưỡng phật giáo mà vui vẻ nhất hàng năm mở hội chùa còn có lễ Đức ông người khai dân lập ấp.

Cạnh chùa Tổng có miếu Trám thờ bà Ngô Thị Thanh con cả ông Ngô Quang Điện. Bà Thanh có công dạy dân làng múa hát và làm lễ hội. Miếu Trám còn gọi là miếu Trò vì lễ hội ở đây có trò trình nghề tứ dân chi nghiệp, đặc sắc nhất là trò tháo khoán, sau lễ mật lúc nửa đêm mười một tháng giêng hàng năm trai gái được tháo khoán ôm nhau thực hiện nam nữ tính giao đích thực mà cặp nam thanh nữ tú nào thụ thai vào giờ ấy còn được làng thưởng lụa là gấm vóc. Miếu Trám thờ vật linh là Lin ga và Yô li bằng chày gỗ và mo cau khoét lỗ tượng hình cho hai vật giống nam nữ. Đó là tục cầu thờ sinh thực khí trong tín ngưỡng phồn thực của cư dân Việt cổ trồng lúa nước. Miếu thờ bà Ngô Thị Thanh được dân gian gọi là miếu thờ bà Đụ Đị. Hai tiếng Đụ Đị hàm nghĩa  phồn thực cũng giống như lễ hội miếu Trám được gọi là Trò Trám, trò phồn thực với nhiều nội dung và yếu tố tục, gây cười.

Ở ven xóm On  có miếu Bà thờ Đức Bà, là tục thờ thần mẫu của người Việt. Theo quan niệm dân gian thì sông núi đều do các thần tạo lên. Đức Bà không muốn sông Hồng ở cạnh làng mình nên khi thần vừa chọc mũi cày xuống thì bà giả tiếng gà gáy cho thần tưởng trời sáng bỏ không cày thành sông ở đây. Nơi mũi cày chọc xuống thành Láng Thờ, nơi sâu nhất của đồng chiêm trũng làng Gáp. Đêm 11 rạng 12 tháng 11 âm lịch hàng năm, làng cúng Đức Bà ở miếu Bà xong thì cũng xuống Láng Thờ đánh cá. Con cá to nhất được sửa lễ cúng thần. Tục đánh cá này ở làng Gáp còn gọi là hội đánh cá Láng Thờ. Hội đánh cá Láng Thờ  liên quan đến di tích miếu Bà. Nay miếu vẫn còn nhưng đang bị xuống cấp vì Láng Thờ đã trở thành ruộng hai vụ lúa nhờ các công trình thủy lợi, thủy nông của Nhà nước tác động đến.

Mồng ba tháng ba hàng năm dân hai làng Mương, Gáp có tục ném quân để tưởng nhớ xa xưa Sơn Tinh, Tản Viên con rể vua Hùng đã cho quân lính tập trận ở đây. Ngày ấy dân hai làng cúng ở đình xong thì dùng đất đá ném nhau chết thôi. Làng Gáp (Tứ Xã) đông người hơn thường đánh thắng quân Mương (làng Sơn Dương). Một lần người bên Mương ra đông hơn đánh đuổi người Tứ Xã chạy ra phía làng Bản Nguyên. Khi chạy đến một quả gò, người đứng đầu quân làng Gáp đập vỡ bát thề nếu còn thua chạy thì chết tan tành như cái bát. Tiếng địa phương gọi đập là ẻo nên quả gò từng đập vỡ cái bát kia từ đó được gọi là gò Ẻo gò Ẻo và cánh đồng Cầu Đá chính là di tích từng diễn ra hội đánh quân trong truyền thống của hai làng Tứ Xã và Sơn Dương.

Làng Tứ Xã, tục gọi là kẻ Gáp xưa có con đường Thiên Lý dọc Bắc Nam chạy qua. Tên làng Gáp có nghĩa là gặp - là nơi gặp gỡ giữa phương Bắc và phương Nam, giữa văn hóa Lạc Việt và văn hóa điền Hoa Hạ. Vì thế xa xưa nơi đây thường diễn ra những trận đánh lớn giữa quân ta và giặc phương Bắc từ Vân Nam xuống. Một vị tướng dân binh đời Trần là Lân Hổ Hầu đã hóa ở cầu Sa Lộc. Sau dân làng dựng đền Sa Lộc để thờ Lân Hổ.

Mùa mưa hay ngập lụt nên làng phải xây một ngôi đền ở gò đất cao giữa làng cạnh chùa Tổng để cất giữ mọi sắc phong của làng. Nơi ấy gọi là Sở Sắc. Ngày 12 tháng giêng hàng năm làng mở lễ hội long trọng. Lễ rước sắc phong từ Sở Sắc ra đền Sa Lộc phải nghỉ ở giữa đường tế “đạo lộ”. Nơi ấy giữa đồng không mông quạnh làng phải xây quán lấy chỗ tế lễ nên gọi là Quán Tế. Quán Tế còn là nơi làng tế cầu đảo, cầu mưa trong những năm đại hạn.

Quán Tế, đền Sa Lộc là những di tích lịch sử tưởng niệm một vị anh hùng của dân tộc góp công chiến thắng của quân ta ở trận cầu Sa Lộc năm xưa.

Con đường vào làng qua đầm lầy do dân đắp gọi là bờ Dân. Một khoa thi nọ ở thời Lê có hai cha con nhà họ Chử cùng thi đỗ một khoa. Để đón mỗi vị quan tân khoa về bằng một con đường, làng phải đắp thêm con đường gần bờ Dân. Vì hai cha con vị tân khoa đi đò từ Lời về nên con đường làng mới đắp bị đón đỗi nên gọi là bờ Đỗi. Bờ Đỗi cùng khu Ao Chạ gần đấy là nơi vợ chồng ông Tổng Cóc - Hồ Xuân Hương ở câu cá và dạy học. Tổng Cóc là cháu chắt ông quan nghè Nguyễn Quang Thành một thần đồng làng Gáp mà “Lịch triều hiến chương loại chú” ghi rõ ông tự học thi đỗ tiến sĩ thời Lê Chính Hòa, nay còn bia số 80 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Bờ Đỗi, khu Ao Chạ và các văn chỉ, từ chỉ thờ Khổng Tử, Tiên Hiền là những di tích về lịch sử khoa bảng của làng Gáp.

Kẻ Gáp có tên chữ lúc đầu là làng Thạch Cáp. Làng Thạch Cáp cũng đồng thời là một đơn vị hành chính cấp cơ sở của triều đình, gọi là xã Thạch Cáp. Buổi đầu ở Việt Nam có những ngôi đình trạm dựng ven đường làm nơi Xa giá nhà vua dừng lại nghỉ. Từ đình Trạm sau này triều đình sức cho các làng xã phải dựng đình làng vừa làm trụ sở hành chính vừa làm nơi thờ thành hoàng là ông vua của làng. Các ông vua của làng do ông vua của nước đề bạt bằng các sắc phong. Thông qua việc sắc phong thành hoàng cho dân làng thờ cúng vị thế ông vua của triều đình nhờ vậy được tôn vinh thêm. Buổi đầu nhất xã, nhất thôn làng Thạch Cáp cũng là xã Thạch Cáp dựng một ngôi đình lớn gọi là đình Thạch. Đình thạch và chùa Tổng là những di tích lớn chung cho cả làng. Vì dân Thạch Cáp ngày một đông, do hương đảng, bè cánh một bộ phận dân làng rủ nhau xây đình chùa mới xin giải quy lập thành một xã mới gọi là xã Vân Cáp. Từ đây làng Gáp chia thành hai xã có thêm đình Vân, chùa Vân không xa đình Thạch và chùa Tổng bao xa. Một bộ phận dân cư của Vân Cáp và Thạch Cáp vì lý do nào đó lại rủ nhau xây đình Đông, đình Trân, mỗi đình kèm một ngôi chùa để làng từ đó trở thành Tứ Xã (bốn xã). Tên làng Tứ Xã đã tồn tại một thời gian dài trong lịch sử phát triển của làng. Sau đó lại một bộ phận dân làng khác rủ nhau xây đình Hùng và chùa Hùng để trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 làng đã từng một thời có tên là Ngũ Xã (một làng có năm xã). Về chùa Trân của thôn Trân Vĩ (đúng ra gọi là xã Trân Vĩ) có lẽ lúc đầu do họ Ngô khởi dựng nên còn có tên là chùa Ngô. Vì ngô gọi là bắp nên được dân gian thế tục hóa gọi Bắp và Vắp tránh thô thiển.Vì chùa Vắp ở trên gò Bồ đề (có cây bồ đề) nên chùa này còn có tên nôm nữa là chùa Bồ Đề. Chùa này bị hư hỏng từ sau kháng chiến chống Pháp. Mới đây ông tiến sĩ Nguyễn Văn Liên một người làng là doanh nhân thành đạt ở Nga về cung tiến nửa tỷ đồng xây dựng lại trên đất nhà chùa xưa kia.

Dân khu Đồng  Bồi đã xây miếu Bù Nụ thờ Tản  Viên Sơn vốn là một vị thành hoàng của làng Gáp. Miếu Bù Nụ xây cạnh giếng Bù Nụ. Giếng này  được người làng Gáp đào cắt đứt long mạch tránh hậu họa từ phía láng Á chĩa vào. Miếu Bù Nụ không còn nhưng giếng đất Bù Nụ lại được tôn tạo xây lát khang trang nhờ vào văn hóa tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng.

Các đình chùa, đền miếu đến các giếng khơi đều đã là những di tích có liên quan mật thiết đến quá trình phát triển làng xã ở đây.

Dân làng Tứ Xã sống xen canh xen cư, người xã nọ xã kia sinh sống và canh tác xen kẽ nhau. Lý trưởng xã này ở cạnh dân đen xã khác. Hai nhà cùng theo việc xóm, cùng bình đẳng trước xóm. Xóm nào cũng làm điếm công. Phần lớn là điếm gỗ có sàn gỗ cho dân xóm chơi bời hóng mát, họp xóm hoặc cho tuần phiên thường trực canh gác hàng đêm. Điếm nào cũng có sàn cao đặt bát hương thờ thần linh bản thổ.

Ngót ba mươi xóm trong làng phần nhiều đều có điếm công. Mỗi xóm có khi còn có đền, miếu, am thờ các vị Thần của làng xã như miếu Mun, miếu Trám, miếu Bà, miếu họ Ngô, miếu xóm Tiếu, xóm Khống...

Việc điều tra thống kê hoặc tôn tạo, bảo tồn giới thiệu lại các di tích của làng giúp cho các thế hệ dân làng hiểu rõ  lịch sử của làng mình chính là góp phần giáo dục cho cộng đồng thêm gắn bó yêu quê hương đất nước của mình hơn.

Đăng nhận xét

 
Top