Đền Hùng là trung tâm, là tiêu điểm về thời đại các
Vua Hùng, các ngôi đền thờ Vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh (Còn gọi là
núi Cả theo địa phương hay các tên khác: núi Hùng, núi Hy Cương), có độ
cao 175 mét so với mặt nước biển. Trước kia khu vực này là cánh rừng
già nhiệt đới .
Ngày nay núi Hùng vẫn giữ dáng vẻ của rừng tự nhiên so với nhiều thế hệ
cây tầng khác nhau, gồm 150 loài cây thảo mộc khác nhau, thuộc 35 họ,
trong đó còn lại một số cây đại thụ lớn như: Đa,Thông, Thiên Tuế, Trò..
vv..
Núi
Hùng trông giống như đầu của một con rồng lớn hướng về Nam, mình rồng
uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau. Đằng trước ba
dòng sông Hồng - Lô - Đà hợp lưu ở Bach Hạc tạo ra một vùng nước lớn
mênh mông, từ đó có những quả đồi thấp lô nhô giống như một đàn rùa nước
bò lên trầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy Tam Đảo trùng điệp
(núi mẹ), xa về phía Nam là dãy ba Vì cao ngất (núi cha) tụ lại .Đằng
sau núi Hùng là những quả đồi lớn san sát nối liền dài tới 10 km , giống
như đàn voi phục về đất Tổ. Sát núi Hùng còn
có những quả đồi như cặp phượng thư (Tiên Kiên), hổ phục (Khang Phụ-Chu
Hóa). Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thủy tụ
hội. Đứng trên đỉnh núi cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một
vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thủy hữu tình . Tương truyền Vua Hùng
đã đi khắp mọi miền, về đây chọn làm đất đóng đô.
* Đền Hạ và Chùa
- Đền Hạ:
Đền Hạ
|
Có
vào khoảng thế kỷ XVII-XVIII, được làm hai lớp theo kiểu chữ nhị. Tương
truyền nơi đây, sau khi kết hôn Lạc Long Quân đã đưa Âu Cơ từ độc Lăng
Xương(Thanh Thủy), về đến núi Nghĩa Lĩnh, Âu cơ ở lại sinh ra một bọc
trăm trứng , sau nở thành một trăm người con trai. Khi các con khôn lớn ,
Lạc Long Quân bàn với Âu Cơ chia các con đi mở mang bờ cõi . 50 người
con theo cha đi xuôi về phía biển, 49 người con theo mẹ lên ngược vùng
núi, người con cả ở lại nối ngôi cha truyền được 18 đời đều gọi là Hùng
Vương. Cộng đồng người Việt hình thành, hai tiếng đồng bào (cùng bọc) vì
thế mà có.
- Gác chuông và chùa Thiên Quang Thiền Tự nơi có ánh sáng của mặt trời rọi xuống): Xây dựng vào thời kỳ nhà Lê (từ 1427-1573) kiến trúc chủ yếu là cột gỗ có đá kê và lợp ngói.
* Đền Trung(Hùng Vương Tổ Miếu)
Đền Trung xuất hiện sớm nhất trên núi Hùng. Kiến trúc buổi đầu thời nhà trần( thế kỷ XIV).
Đền Trung
|
Vào
thế kỷ XV (thời Lê) bị giặc phía bắc tàn phá. Dân sở tại sau chiến
tranh đã xây dựng một ngôi đền khá lớn, có thớt đá kê cột gỗ, mái lợp
ngói. Cách ngày nay khoảng 300 năm, Đền Trung được xây dựng lạih kiểu chữ nhất, tồn tại đến bây giờ. Tương truyền nơi đây các vua Hùng thường họp bàn việc nước, hay nỗi khi đi săn qua khu vực này thường đốt lửa nướng thịt chia đều cho mọi người trong cuộc săn. Vào thời Hùng Vương thứ 6 , sau khi đánh đuổi giặc Ân từ phía Bắc tràn xuống, Vua Hùng Vương thứ 6 muốn chọn con kế vị, người đã cho gọi 18 người con về núi Nghĩa Lĩnh, mở cuộc thi làm cỗ, để tìm người con nào có lòng kính hiếu cha mẹ, yêu trọng non nước sẽ nhường ngôi cho. Lang Liêu là người con út, thươngdân yêu lao động, hiếu thảo và sáng tạo làm hai thứ bánh tượng trưng cho trời và đất (đó là bánh dày và bánh trưng) dâng cha.
* Đền Thượng (Kính thiên Lĩnh Điện)
Được
xây vào thế kỷ XV.Trong dịp đại trùng tu từ năm 1914-1922, triều đình
phong kiến Việt Nam xuất tiền và cử quan về giám sát việc xây dựng lại
đền Thượng(năm Khải Định nhị niên - Tức Khải Định năm thứ 2).Người đời sau thường truyền lại rằng:
Đền Thượng
|
Thời Hùng Vương, Vua Hùng cùng các quan tướng thường đến đỉnh cao Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi thức cầu cúng tế trời đất,mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi để muôn dân ấm no hạnh phúc. Vì thế mà Đền Thượng bây giờ vẫn gọi là “Kính thiên Lĩnh Điện” (tức điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh).
Truyền thuyết còn kể lại rằng tại đỉnh cao này, Hùng Vương thứ 6 sau cuộc kháng chiến chống giặc Ân thắng lợi, cảm kích vị anh hùng có công đánh giặc Ân cứu nước đã lập miếu thờ Thánh Gióng trên đỉnh núi.
* Lăng Tổ (Hùng Vương Lăng)
Lăng Tổ VuaHùng
|
*Đền Giếng:
Kiến trúc có vào khoảng thế kỷ XVIII.Đền Giếng nằm dưới chân núi Hùng gồm ba lớp nhà và hai nhà ở hai bên.Tương truyền khi đi theo cha đi kinh lý qua vùng này, hai nàng Tiên Dung - Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng Vương thứ 18 thường đến đây soi gương chải tóc. Hai nàng đã công cùng chồng khẩn hoang, trị thủy, dạy dân trồng lúa xây dựng cuộc sống. Được xây dựng vào thời gian nao không ai nhớ rõ. Xưa có thể là mộ đất có mái che, sau tới năm 1874 được xây dựng kiểu dáng như ngày nay.
Đăng nhận xét